50th Commemoration — Digital Exhibition

Ngọc I Was, Pearl I Am

Bio:

Hien Duc Tran is a graduate of UMass/ Boston.  He returned to Vietnam as a photojournalist in 1989 for the first time after leaving the country in 1975, accompanying an official delegation of American Vietnam veterans.  In August 1990, his exhibit entitled Ngoc I Was, Pearl I Am: An Exhibition of Photographs on the Amerasian Experience in Boston and Vietnam was held at the Boston Public Library at Copley.  His photos have been published in the Cape Cod Times, Boston Globe, Associated Press, Christian Science Monitor, The Interview, and Smithsonian.  He lives with his family in Boston.

Hiển Đức Trần là một cựu sinh viên của Đại học Massachusetts tại Boston (UMass Boston). Ông trở về Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1989 trong vai trò phóng viên ảnh, sau khi rời quê hương vào năm 1975. Chuyến đi này là cùng phái đoàn chính thức gồm các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Vào tháng 8 năm 1990, ông tổ chức triển lãm ảnh có tên “Ngọc I was, Pearl I am: Một Triển Lãm Ảnh về Trải Nghiệm của Người Con Lai Mỹ-Việt tại Boston và Việt Nam” tại Thư viện Công cộng Boston (Copley Square). Tác phẩm của ông đã được đăng trên nhiều tờ báo và cơ quan thông tấn như Cape Cod Times, Boston Globe, Associated Press, Christian Science Monitor, The Interview, và Smithsonian. Hiện ông sống cùng gia đình tại thành phố Boston.

Preface: 

Of course, many people helped me clarify my thoughts about the photographs I show here, words, grammar, scent and sense. But most of all it has been the Amerasians themselves to whom my heart has listened, I am in deep gratitude to them all. Yet, even so, I cannot quite escape the feeling that I have somehow sinned against them, a kind of simony of their suffering. For this charge - - that accusation of the boy I quote further on in this exhibit - I have no real defense beyond that ancient justification that spiritual beauty must always be recorded, and in the suffering of these children, I have felt a terrible beauty breaking forth for which I must personally make a record. These then are their faces; these are the circumstances under which some of these photographs were made, some of my thoughts, some of their words. I feel honored they invested so much with me. And while they more easily permitted my questions and prying lenses in Vietnam than they ever could in New England, it is here that I have come to understand and appreciate the bravery of these children who have survived so much, now, finally, surviving even their dreams themselves.

Certainly, my own dreams of which this exhibit is hopefully partial accomplishment, of being bridge between the two peoples whose histories have come to be my own autobiography of heart and chasm, owe a debt at least as lengthy as it has been long enduring. But among these are four names I must particularly honor. Lois Rudnick, Director of the American Studies Program at the University of Massachusetts at Boston, in whose classes the idea for this project was born and brought to an early fruition as Senior Thesis. It is in further pursuit of the idea you so encouraged, Lois, that I made that return trip to Vietnam, sought out these children. Melissa Shook, UMass/Boston Department of Art and Photography, it was you who taught me my craft. Melissa, for the rest of my life whenever I pick up my camera, it is you who are also being recorded. Peter Kiang, Asian American Studies at UMass/Boston, it was you who taught and witnessed for me the pain of being both American and Asian, and yet the struggle of somehow being neither alone. And William Breisky of the Cape Cod Times, who as editor of the newspaper where I am a photographer, early encouraged me in this and other projects, pointing out that even projects unrelated to the newspaper helped to develop the artist in me, and that it is in this development in which all lasting journalism is finally brought to be. Not that which is saluted by prizes, but that which is remembered by souls... --Hien Duc Tran, 1990

Lời Mở Đầu:

Dĩ nhiên, đã có rất nhiều người giúp tôi làm rõ những suy nghĩ của mình về những bức ảnh được chia sẻ ở đây – về ngôn từ, ngữ pháp, hương thơm và cảm nhận. Nhưng trên hết, chính những người con lai Mỹ là những người mà trái tim tôi đã lắng nghe. Tôi vô cùng biết ơn tất cả họ.

Tuy vậy, tôi vẫn không thể thoát khỏi cảm giác rằng bằng cách nào đó, tôi đã phạm một tội với họ – một kiểu mua bán thiêng liêng từ chính nỗi đau của họ. Trước lời cáo buộc đó – lời buộc tội của một cậu bé mà tôi sẽ trích dẫn ở phần sau của triển lãm này – tôi không có lời biện minh nào xác đáng, ngoài lời biện hộ cổ xưa rằng: vẻ đẹp tâm linh luôn cần được ghi lại. Và trong nỗi đau của những đứa trẻ này, tôi đã cảm nhận được một vẻ đẹp khủng khiếp đang vỡ òa – một vẻ đẹp mà tôi cảm thấy có trách nhiệm phải lưu giữ lại.

Đây là những khuôn mặt của họ; đây là hoàn cảnh mà một vài bức ảnh đã được chụp; đây là những suy nghĩ của tôi, và cả một vài lời từ họ. Tôi cảm thấy mình thật vinh dự khi được họ tin tưởng và trao gửi nhiều đến vậy.

Và dù ở Việt Nam, họ dễ dàng chấp nhận những câu hỏi và ống kính tò mò của tôi hơn nhiều so với khi ở New England, thì chính tại nơi này, tôi mới thật sự thấu hiểu và trân trọng lòng can đảm của những đứa trẻ ấy – những người đã sống sót qua biết bao thử thách, và bây giờ, sau cùng, còn đang tiếp tục sống sót qua cả chính những giấc mơ của mình.

Chắc chắn rồi, chính những giấc mơ của riêng tôi – mà triển lãm này hy vọng sẽ là một phần hiện thực hóa – về việc trở thành chiếc cầu nối giữa hai dân tộc, những dân tộc có lịch sử đã trở thành chính bản tự truyện của trái tim tôi, của những vực sâu trong tôi – đều mang một món nợ sâu đậm, lâu dài như chính hành trình này. Trong số những món nợ ấy, có bốn cái tên mà tôi nhất định phải ghi ơn.

Lois Rudnick, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Massachusetts ở Boston, chính trong các lớp học của cô mà ý tưởng cho dự án này được hình thành và sớm đơm hoa kết trái như một Luận án Tốt nghiệp. Chính nhờ sự khích lệ của cô, Lois, mà tôi đã quyết định trở lại Việt Nam, đi tìm những đứa trẻ ấy. Melissa Shook, Khoa Nghệ thuật và Nhiếp ảnh tại UMass/Boston, chính cô là người đã dạy tôi nghề. Melissa, suốt quãng đời còn lại, mỗi khi tôi cầm máy ảnh lên, là mỗi khi hình bóng cô cũng được ghi lại trong khung hình ấy. Peter Kiang, Khoa Asian American Studies (Nghiên cứu Người Mỹ gốc Á) tại UMass/Boston, chính thầy là người đã dạy và chứng kiến cùng tôi nỗi đau của việc là người Mỹ và người châu Á – nhưng đồng thời cũng là cuộc đấu tranh dai dẳng khi không hoàn toàn thuộc về bên nào. Và William Breisky của tờ Cape Cod Times, với tư cách là Tổng Biên tập tại tòa soạn nơi tôi làm nhiếp ảnh gia – thầy là người đã sớm khuyến khích tôi trong dự án này và những dự án khác, luôn nhấn mạnh rằng, ngay cả những công việc không liên quan đến báo chí cũng giúp nuôi dưỡng phần nghệ sĩ trong tôi. Và chính từ sự phát triển ấy, mọi thể loại báo chí bền vững mới thật sự được hình thành. Không phải là thứ được ca ngợi bằng giải thưởng, mà là thứ được lưu giữ trong tâm hồn con người...

Hiển Đức Trần, 1990

Tán cây già trên công viên rậm rạp đến mức,
mưa chỉ lác đác chạm được vào lớp cỏ bên dưới
trước khi mùa mưa đến. Ngoài rìa bãi cỏ úa màu,
là tòa nhà nơi chính quyền cũ từng tiếp đãi
các vị khách quý người Mỹ.
Bạn có thể thấy những công trình bê tông đúc sẵn giống hệt như thế trên các con phố nhỏ ở Washington, nơi dẫn ra khu Mall – những con đường mang tên Kansas, Missouri, Oklahoma.

Và kia là cô bé, nằm ngủ trước toà nhà tiếp khách ấy – nơi, biết đâu, mẹ của em từng làm việc năm   mười bảy tuổi. Nhưng công viên này không phải là quê hương thật của em.
Họ luôn bảo rằng quê em là Kansas, Missouri, Oklahoma; rằng em cũng là món quà đến từ một đất nước vừa lạ lẫm vừa ngây thơ – đất nước đã xây nên tòa nhà này.
Và giờ đây, em đang trên đường đến nơi ấy,
nơi cỏ luôn xanh tươi, chẳng ai phải ngủ ngoài công viên,
và chẳng có mùa mưa nào dám chạm đến một đứa trẻ mong manh như em.


Con phải tự cắt lớp nhựa rồi tìm cái kim để gỡ ra,"
Tuan nói nhỏ, có chút ngại ngùng,
khi cậu giơ tay sờ vào con tem in hình
quốc kỳ Mỹ trên chiếc áo thun của mình.
Có lẽ, lúc một cậu con trai bắt đầu chạm
ngưỡng tuổi trưởng thành,
việc thể hiện niềm tự hào trong lòng
chưa bao giờ là dễ dàng.
Lại càng khó hơn với một cậu bé da Đen ở Việt Nam,
khi tất cả những gì cậu có để khoe
chỉ là một chiếc áo cũ đề chữ
"Los Angeles Raiders"
và một con tem mười lăm xu
in hình lá cờ Mỹ –
một con tem trông như
đã bị huỷ rồi.


SHICK-ah-go,” bà ta nói, giơ lên tấm hình của một người Đại Úy trẻ, trông giống người Ý, mặc quân phục Mỹ, nhấn mạnh âm đầu tiên trong chữ Chicago. “Đó là nơi ông ấy từng nói với tôi rằng một ngày nào đó, cả nhà sẽ về sống. SHICK-ah-go, nước Mỹ. Đây là hình của ông ấy, và đây là hình con trai, con gái của ông ấy – giờ thì họ muốn đoàn tụ với ông ấy ở SHICK-ah-go. Con không thấy thằng bé nhà mình giống cha nó lắm sao?”

Tôi trả lời, “Ngay trung tâm SHICK-ah-go,” cố gắng không làm bà cụ nghĩ rằng tôi đang sửa cách phát âm của bà. “Trái tim của SHICK-ah-go.”


Tôi thật sự không có ý định khiến mọi thứ trông giống như một buổi Rước Lễ lần đầu khi mua khay bánh chiên ngọt đó từ cậu bé Con Lai da đen.

“Chú ơi,” cậu bé lễ phép nói, “chú lấy cả khay chỉ năm ngàn đồng thôi.”

Vậy là, chỉ khoảng một đô la, tôi có thể mời cả nhóm Con Lai – chắc chắn đã làm cậu bé bán bánh vui cả ngày.

“Và bên Mỹ, lúc nào cũng sẽ như vậy đó,” cậu bé tuyên bố một cách đầy tự hào, và mọi người đều gật đầu như cùng chia sẻ một nghi lễ thiêng liêng, nhìn tôi đầy hân hoan – tất cả chúng tôi, những người Mỹ, cuối cùng cũng được ngồi lại cùng nhau và bẻ bánh mà ăn...